“CATS” là vở nhạc kịch phản ánh về đời sống của một đàn mèo có tên Jellicle từng giành nhiều giải thưởng danh giá bởi vở diễn được thực hiện quá xuất sắc. “CATS” được công diễn trên toàn thế giới và được dịch sang hơn 20 thứ tiếng.
Một thế giới thiên đường của đàn mèo Jellicles
Chương trình Thế giới âm nhạc phát sóng lúc 6g ngày 24/8 trên HTV7 đặc biệt giới thiệu một số ca khúc được trích từ vở nhạc kịch CATS. Đây là vở ca múa opera được công diễn lần đầu ở Anh quốc, tại Nhà hát West End – London vào năm 1981, và diễn song song với lịch diễn tại Anh quốc là ở Mỹ tại nhà hát Broadway, New york bắt đầu từ năm 1982.
Vở CATS do nhạc sĩ Andrew Lloyd Webber sáng tác dựa trên tác phẩm thơ Old Possum's Book of Practical Cats của . S. Eliot; phần soạn lời cho các bài hát là của đạo diễn dàn dựng sân khấu Trevor Nunn; còn phần biên đạo múa là của nữ diễn viên múa ba-lê Gillian Lynne kiêm diễn viên, kiêm đạo diễn sân khấu và truyền hình. Bà cũng từng là biên đạo múa và đạo diễn cho vở nhạc kịch The Phantom of the opera (Bóng ma trong nhà hát).
Thời gian công diễn vở CATS đều lập những kỷ lục toàn cầu trong lịch sử biểu diễn nhạc kịch, và nó được diễn tại London suốt 21 năm và tại Broadway 18 năm.
Lão tộc trưởng phiên bản 1998
Vở diễn là một tác phẩm ngụ ngôn nói về đàn mèo Jellicles. Chúng sống tương tự như xã hội loài người vậy, chúng cũng tranh giành, cướp giật, bắt nạt nhau; rồi cũng yêu thương, ghen tị nhau, ghét bỏ và cô lập ai đó… lũ mèo trong vở cũng tìm kiếm một thứ hạnh phúc lâu dài, cũng mơ đến một thế giới tốt đẹp hơn là Heaviside Layer – một thế giới giống như thiên đường vậy. Còn không gian diễn ra của vở CATS được cố định từ đầu đến cuối là một bãi phế liệu đủ thứ được bỏ hoang, khá chật hẹp và tù túng, ở đó có cả những chiếc xe hơi cũ nát, và bãi phế liệu này nằm ở cuối một con hẻm vắng. Đây là nơi đàn mèo Jellicle thường tụ họp nhau, nơi diễn ra tất cả những sinh hoạt mang tính quyết định của tập thể bầy đàn mèo Jellicle.
Và hàng năm cũng tại nơi đây, đàn mèo Jellicle tổ chức buổi dạ tiệc có tên là The Jellicle Ball để phô trương sức mạnh của loài mèo, để chúng ca hát nhảy múa, và để cuối cùng được Trưởng tộc đàn mèo chọn ra một con cho lên cõi thiên đường Heaviside Layer.
Đàn mèo Jellicle này ở khắp nơi; có con thì sống ở trong biệt thự của vua chúa; có con lại sống trong nhà hát; có những con sống ở các nhà dân thường; lại có những con sống ở quanh khu đường rầy xe lửa. Mỗi lần đến hẹn thì chúng lại tụ về bãi phế liệu bỏ hoang này.
Bà mèo khoang phiên bản 1998
Các bài hát trích từ vở nhạc kịch CATS được giới thiệu trong chương trình chính là trích từ bản video do tác giả Lloyd Webber thực hiện năm 1998. Phiên bản này dựa theo buổi công diễn trên sân khấu có nữ nghệ sĩ Elaine Paige đóng vai mèo Grizabella tàn tật khốn khổ. Và ngoài những diễn viên khác được lấy từ hai sân khấu Broadway và New London, thì còn có Sir John Mills tham gia đóng vai mèo già Gus (hay còn có tên là Asparagus) tức con mèo từng là diễn viên trong nhà hát.
Jellicle Songs for Jellicle Cats
Jellicle Songs for Jellicle Cats (Khúc hát dành cho đàn mèo Jellicle). Bài hát giải thích đặc điểm của giống mèo Jellicle, chúng tự giới thiệu khả năng thiên phú của chúng trong thế giới tự nhiên và khi sống chung với xã hội loài người.
The Old Gumbie Cat
The Old Gumbie Cat (Bà mèo khoang) là một con mèo cái già to béo, múp míp, lông có hình các khoang và còn có tên là Jennyanydot.
The Rum Tum Tugger
The Rum Tum Tugger (Anh mèo tò mò) là nhân vật mèo rất đẹp trai, được rất nhiều em mèo si mê, rất quậy, thích làm ngược lại ý người khác; rồi thì lúc nào cũng làm bộ làm tịch, hay phô trương, ra sức tán tỉnh quyến rũ các cô mèo, nhưng luôn thất bại trước một cô mèo! Đặc biệt là…anh mèo rất tò mò.
Anh mèo tò mò phiên bản 1998
Old Deuteronomy
Old Deuteronomy (Lão tộc trưởng) kể về ông lão trưởng tộc của đàn mèo Jellicle - một ông mèo được xem là có phép màu và bất tử; ông có thể chọn đưa 1 con mèo trong đàn lên cõi thiên đường Heaviside Layer.
Mr. Mistoffelees
Mr. Mistoffelees (Chàng mèo ảo thuật) là một anh chàng mèo với nhiều trò khôn khéo ranh mãnh lừa gạt cả đàn, nhưng cũng đã từng giải cứu Ông mèo tộc trưởng thoát khỏi tên mèo độc ác Macavity bằng trò ảo thuật.
Chàng mèo ảo thuật phiên bản 1998
Memory
Memory (Kí ức) được nhân vật mèo Grizabella (do Elaine Paige thủ vai) kể lại kỷ niệm về những gì được gọi là “Hạnh phúc”, những gì thuộc về quá khứ của bà mèo. Bài hát này trở nên nổi tiếng nhất trong vở CATS và về sau nó được hơn 150 ca sĩ khác thu âm lại trong đó có Barbra Streisand, Sarah Brightman và Barry Manillow.
Ban Mê