Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ di sản vô giá mà Người để lại cho dân tộc ta; là hệ thống ứng xử xuyên suốt cuộc đời sự nghiệp cách mạng, thể hiện tầm vóc trí tuệ lớn lao, tình cảm sâu sắc của Người.
Bác Hồ về thăm bà con Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng) tháng 2/1961 (ảnh tư liệu).
Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh có nguồn cội từ lịch sử, từ tư tưởng và thực tiễn của dân tộc, mang dấu ấn thời đại và phẩm chất cá nhân không ngừng kiên trì tự học, tự rèn luyện mới có được. Đó là sự hài hoà giữa văn hoá ứng xử phương Đông, phương Tây, trong đó hạt nhân chủ yếu là mục đích vì ấm no hạnh phúc cho nhân dân, vì sự trường tồn và phát triển của dân tộc và vì nhân loại tiến bộ.
Nổi bật trong phong cách ứng xử Hồ Chí Minh, trước hết là tính nhất quán về mục tiêu, nguyên tắc ứng xử. Tính nhất quán về mục tiêu, nguyên tắc trong phong cách ứng xử của Hồ Chí Minh được thể hiện rõ trong nhận thức tư tưởng cũng như trong toàn bộ hoạt động thực tiễn cách mạng phong phú. Đối với Hồ Chí Minh, dù ở bất cứ ở đâu, trên bất kỳ cương vị nào, mục tiêu cuối cùng mà Người phấn đấu, hy sinh suốt cuộc đời là độc lập dân tộc, tự do, ấm no và hạnh phúc của Nhân dân. Năm 1946, trên cương vị Chủ tịch nước, trả lời phỏng vấn các nhà báo nước ngoài, Người đã khẳng định: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [1] và “cái mà tôi cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập” là mục tiêu tranh đấu của Hồ Chí Minh và của cả dân tộc Việt Nam quyết tâm phấn đấu. Mục tiêu nhất quán đó đã chi phối nguyên tắc ứng xử của Hồ Chí Minh trong mọi hoàn cảnh, điều kiện.
Trong thực tiễn hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn thực hành theo nguyên tắc “dĩ bất biến ứng vạn biến”, trong đó “ứng vạn biến” nhưng không xa rời, vứt bỏ cái bất biến. Đó chính là tinh thần biện chứng trong phong cách ứng xử Hồ Chí Minh. Người nhấn mạnh: “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt” [2]. Để thực hiện mục đích ấy, khi thời cơ giành chính quyền đến, Người xác định quyết tâm: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Trước âm mưu chia cắt đất nước của kẻ thù, Hồ Chí Minh kiên quyết khẳng định: Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một và “sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó vẫn không bao giờ thay đổi”. Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh, ném bom miền Bắc, Người đã thể hiện ý chí, quyết tâm của cả dân tộc ta: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do” [3]. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Người luôn căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, khi cần thiết chủ động đưa ra những điều kiện thoả hiệp, nhưng thoả hiệp phải có nguyên tắc, tuyệt nhiên không bao giờ từ bỏ cái “nguyên tắc bất biến” kể cả khi thương lượng với kẻ thù.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã vận dụng nguyên tắc này như một phương châm xử thế, để vượt qua mọi khó khăn, thách thức chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua những giai đoạn khó khăn nhất. Người đã từng nhiều lần phải kìm nén uất ức trước thái độ ngang ngược, hống hách của kẻ thù, kiên trì, kiên quyết giữ vững lập trường cách mạng, nhưng có lúc lại rất mềm mỏng, linh hoạt, lùi một bước, cũng là nhằm để thực hiện cho được mục tiêu nhất quán cao cả mà trọn đời Người phấn đấu, là độc lập dân tộc, tự do, ấm no, hạnh phúc của Nhân dân, trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Có thể nói, tính nhất quán về mục tiêu, nguyên tắc trong phong cách ứng xử Hồ Chí Minh là sự chân thành bình dị, tự nhiên của một vị lãnh tụ, đồng thời cũng là một công bộc thực sự của Nhân dân, vừa có uy lực lại vừa có sức cuốn hút kỳ lạ. Người vừa là nhà chính trị sáng suốt, vừa là nhà quân sự thiên tài, khẩn trương như một chiến sĩ, thanh thản như một triết gia, mềm dẻo mà cương nghị, cao cả mà thiết thực, giản dị nhưng rất mực thanh tao; quan tâm, coi trọng cái lớn, nhưng không quên cái nhỏ.
Mặt khác, nói đến phong cách ứng xử Hồ Chí Minh, không thể không nói đến phong cách ứng xử của Người đối với Nhân dân, bạn bè, đồng chí, anh em. Phong cách đó của người thể hiện tự nhiên, bình dị, cởi mở, chân tình, vừa chủ động linh hoạt lại vừa ân cần, tế nhị, làm cho bất cứ ai được gặp Người đều thấy không khí chan hòa, ấm cúng, thoải mái, không cảm thấy sự cách biệt giữa lãnh tụ và quần chúng. Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh chứa đựng những giá trị nhân văn, nhân bản của con người, luôn hướng con người vươn tới những điều tốt đẹp của chân, thiện, mỹ. Khi cần nhắc nhở, Người không quên chỉ vẽ tận tình. Khi cần phê bình, Người rất nghiêm khắc, nhưng rất độ lượng, bao dung, không bao giờ bao che, nhằm nâng con người lên chứ không hạ thấp, vùi dập. Đối với Hồ Chí Minh, khi tiếp xúc với nhân dân, bạn bè, đồng chí, Người luôn luôn thể hiện thái độ yêu thương, trân trọng, khoan dung, khiêm nhường và độ lượng với mọi người. Chính vì vậy mà sức cuốn hút, cảm hóa, cảm phục, ngưỡng mộ và thôi thúc mọi người hướng tới cái chân, thiện, mỹ trong cuộc sống cũng như trong công việc. Phong cách ứng xử của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở tình thương yêu, sự quan tâm với các đối tượng trong giao tiếp, mà nó còn được thể hiện thông qua thái độ, hành vi, cử chỉ ân cần mực thước của chính bản thân Người.
Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở, “Đối với tất cả mọi người trong các tầng lớp dân chúng, ta phải có một thái độ mềm dẻo khôn khéo, biết nhân nhượng, biết trọng nhân cách người ta” [4]. Đặc biệt, đối với đồng bào theo các tôn giáo, Người đánh giá cao và trân trọng những giá trị đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo, chỉ ra những giá trị tương đồng giữa đạo đức tôn giáo và đạo đức Cộng sản qua cách nhìn nhận về những người đã sáng lập ra các tôn giáo. Theo Người, vấn đề quan trọng cần đạt được trong việc tiếp cận, đối xử với đồng bào các tôn giáo là phải lôi kéo được quần chúng có đạo vào các hoạt động thực tiễn, tức là xây dựng xã hội mới chứ không phải sa vào cuộc tranh luận vô bổ có cảnh cực lạc trên Thiên Đường hay không. Đối với những người lầm đường, lạc lối hay đã từng cộng tác với bên kia trận tuyến, Người yêu cầu “Không nên đào bới những chuyện cũ ra làm án mới. Đối với những người không nguy hiểm lắm, thì nên dùng chính sách cảm hoá khoan dung” [5]. Nói về Người, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Ở con người Hồ Chí Minh mỗi người đều thấy hiển hiện của nhân vật cao quý nhất, bình dị nhất và được yêu quý nhất trong gia đình mình... Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh với sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng Bác ái của Chúa, triết học của Mác, thiên tài cách mạng của Lênin và tình cảm của một chủ gia tộc, tất cả bao bọc trong một dáng dấp rất tự nhiên”.
Với bản lĩnh chính trị vững vàng và trí tuệ uyên bác, phong cách ứng xử Hồ Chí Minh vừa tự nhiên, khiêm tốn, chân thành, bình dị, vừa linh hoạt, biến hóa đã tạo nên sức hấp dẫn, cảm hóa đối với con người, quy tụ được các bậc yêu nước lão thành, những trí thức lớn rời bỏ cuộc sống vinh hoa để phục vụ đất nước. Sau một buổi tiếp xúc, Người đã mời và thuyết phục được cụ Huỳnh Thúc Kháng ra đảm nhiệm việc nước; thuyết phục cụ Bùi Bằng Đoàn, nguyên Thượng thư Bộ Hình làm Trưởng ban Thường vụ Quốc hội, cụ Phan Kế Toại, nguyên Khâm sai Bắc Kỳ, làm Phó Thủ tướng; và 4 trí thức người Việt đã thành danh ở Pháp gồm Phạm Quang Lễ (Trần Đại Nghĩa), Trần Hữu Tước, Võ Quí Huân và Võ Đình Quỳnh, đã cảm phục và cùng Người về nước. Giáo sư Đặng Văn Ngữ, một tài năng mà người Pháp, người Nhật, người Mỹ đều muốn sử dụng, song cảm phục và nghe theo tiếng gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, năm 1949 ông đã từ Nhật Bản về nước tham gia kháng chiến.
Nói về phong cách ứng xử của Hồ Chí Minh, một phóng viên người Pháp nhận định: “Mềm dẻo hay kiên quyết khi cần thiết, nhưng bao giờ cũng tự chủ và vẫn giữ phong thái Việt Nam, Ông biết đương đầu với những biến động chính trị và lịch sử, đem cái sức toả sáng phi thường và vô vàn đức tính cao quý của Ông phục vụ sự nghiệp mà Ông là hiện thân” [6]. Thế giới khâm phục và tôn vinh Hồ Chí Minh không chỉ vì Người là anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hoá kiệt xuất, nhà tư tưởng lớn của cách mạng Việt Nam, mà còn thừa nhận Người là một nhà lãnh đạo, nhà tổ chức thiên tài với phương pháp cách mạng đặc biệt hiệu quả, phương châm xử thế đặc biệt nhạy cảm. Nhà báo Úc Wilfred Burchett, người từng có nhiều cuộc phỏng vấn Hồ Chí Minh, cho biết: “Cảm giác đầu tiên của tôi là sự thân mật, ấm áp và giản dị. Hồ Chủ tịch có khả năng khiến người ta thấy nhẹ nhõm ngay từ khoảnh khắc đầu tiên và trình bày những vấn đề phức tạp nhất chỉ trong vài từ và cử chỉ rõ ràng. Trong những cuộc gặp gỡ tiếp theo với nhân cách vĩ đại này, sự ấm áp, giản dị, cách thể hiện rõ ràng xuất phát từ trí tuệ mẫn tiệp và sự thấu hiểu trọn vẹn chủ đề khiến tôi có ấn tượng vô cùng sâu sắc”. Ngài Giôn Giô-lan, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Anh (1969) đã viết: “Được gặp gỡ và nói chuyện với đồng chí Hồ Chí Minh là một ấn tượng không thể nào quên được. Đây là một con người vĩ đại nhưng không bao giờ Người tỏ ra mình là một con người vĩ đại. Mặc dầu những trọng trách phải gánh vác, Người vẫn thân ái, nhiệt tình và sôi nổi làm cho bạn cảm thấy thoải mái ngay”…
Phong cách Hồ Chí Minh nói chung, phong cách ứng xử của Người nói riêng là tài sản tinh thần vô giá của Đảng, dân tộc ta, là tấm gương sáng để mỗi người có thể học tập và noi theo. Vì vậy, việc đẩy mạnh học tập và làm theo Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện nghiêm Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” chính là một giải pháp quan trọng, thiết thực góp phần xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ. Thông qua việc học tập và làm theo phong cách ứng xử của Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng và Nhân dân, nghiêm túc tự kiểm điểm, tự giác khắc phục những hạn chế, yếu kém trong ứng xử với các đối tượng trên cương vị, chức trách được giao. Đồng thời, thực hiện nói đi phải đôi với làm, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống giản dị trong sáng, luôn gắn bó mật thiết với Nhân dân, phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được Đảng và Nhân dân giao phó.
Trong giai đoạn cách mạng mới, học tập và làm theo phong cách của Hồ Chí Minh, đòi hỏi các cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc các cấp và các đoàn thể quần chúng cần tiếp tục đổi mới và đẩy mạnh giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về sự cần thiết phải học tập và làm theo phong cách ứng xử của Hồ Chí Minh. Đặc biệt, đối với cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành phải luôn đề cao ý thức, trách nhiệm, tích cực, tự giác tu dưỡng, rèn luyện, kiên quyết đấu tranh tự khắc phục những hạn chế, yếu kém trong phong cách ứng xử hàng ngày, thực hiện thành nền nếp thường xuyên, lời nói phải đi đôi với việc làm, nêu gương sáng trước tập thể; phải thực sự là người có phẩm chất chính trị trong sáng, đạo đức lối sống trong sạch, lành mạnh, gắn bó mật thiết với Nhân dân, là lực lượng tiên phong đi đầu trong học tập và làm theo phong cách ứng xử Hồ Chí Minh./.
Chú thích:
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập.15, tr.627
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập.8. tr. 555
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập.15, tr.131
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.52
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 4, tr.19
[6] Tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh
Thượng tá Đặng Công Thành (Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng)