Truyền hình trực tiếp Lễ kỷ niệm 80 năm thành lập Bộ Quốc gia Giáo dục kết hợp Lễ Khai giảng năm học 2025-2026
Thực hiện Kế hoạch công tác năm 2025 và được sự đồng ý của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tổ chức Lễ kỷ niệm 80 năm thành lập Bộ Quốc gia Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) kết hợp Lễ khai giảng năm học 2025 - 2026 vào sáng ngày 5/9/2025 tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia (Hà Nội).
Chương trình sẽ được truyền hình trực tiếp trên kênh VTV1 và kết nối trực tuyến tới tất cả các cơ sở giáo dục, đào tạo trong cả nước.

Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo tổ chức Lễ khai giảng năm học 2025 - 2026 gắn với Kỷ niệm 80 năm thành lập Bộ Quốc gia Giáo dục
Để đảm bảo tổ chức thành công, Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị UBND các tỉnh, thành phố, các cơ sở giáo dục đại học và cơ sở giáo dục nghề nghiệp phối hợp triển khai các nhiệm vụ sau:
Tổ chức đồng thời lễ khai giảng tại các cơ sở giáo dục từ 8 giờ - 9 giờ 30 phút ngày 5/9/2025, theo Kế hoạch số 1153/KH-BGDĐT ngày 8/8/2025, trùng thời điểm diễn ra Lễ kỷ niệm tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia.
- Bảo đảm đường truyền và thiết bị để kết nối trực tuyến hoặc qua kênh VTV1, phối hợp với các đơn vị viễn thông - truyền hình địa phương để tín hiệu ổn định, hình ảnh và âm thanh chất lượng cao.
- Các hoạt động riêng của trường (nếu có) cần gọn nhẹ, kết thúc trước 8 giờ.
Từ 8 giờ - 9 giờ 30 phút, toàn thể đại biểu, cán bộ, giảng viên, học sinh - sinh viên tham dự đầy đủ chương trình chung, thực hiện nghi thức chào cờ, hát Quốc ca đồng bộ với Lễ tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia và nghe phát biểu của lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
- Bảo đảm an toàn : Có phương án ứng phó thời tiết, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn giao thông và phòng chống cháy nổ.
- Đẩy mạnh truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng và kênh truyền thông của cơ sở giáo dục, tạo hiệu ứng lan tỏa sâu rộng trong toàn ngành.
Bộ Giáo dục và Đào tạo nhấn mạnh, đây là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt, vừa mở đầu năm học mới vừa kỷ niệm dấu mốc lịch sử của ngành. Các địa phương, cơ sở giáo dục cần thực hiện nghiêm túc, tổ chức trang trọng, an toàn, thiết thực và hiệu quả.
80 năm giáo dục phát triển đất nước

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Vũ Đình Hoè đứng hàng đầu thứ 2 từ trái sang.
Bài 1: Sự khởi đầu của nền giáo dục Cách mạng
Việt Nam là dân tộc có truyền thống hiếu học. Việc coi trọng sự học đã góp phần kiến tạo nền văn hiến cho dân tộc. Kế thừa truyền thống đó, 80 năm qua, kể từ ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giáo dục đã bền bỉ kiến tạo con người, dựng xây đất nước, tạo nên những kì tích trong thời đại Hồ Chí Minh.
Nhân dịp kỉ niệm 80 năm thành lập Bộ Quốc gia Giáo dục, nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo (28/8/1945 – 28/8/2025), Cổng Thông tin điện tử Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) đăng tải loạt bài “80 năm giáo dục phát triển đất nước”.
Chỉ ít ngày sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Bộ Quốc gia Giáo dục đã được thành lập, là một trong những bộ đầu tiên của Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Điều này thể hiện tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục. Đây cũng là nền tảng quan trọng, đánh dấu sự khởi động của một nền giáo dục hoàn toàn mới.
Dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa
Giai đoạn 1945 – 1954 là một thời kỳ đặc biệt và đầy thử thách trong lịch sử dân tộc. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đất nước đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn: "thù trong giặc ngoài", kinh tế kiệt quệ, 95% dân số mù chữ...
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ (3/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định xóa nạn mù chữ là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách.
Hiện thực hóa tầm nhìn chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiệm vụ "diệt giặc dốt" được triển khai mạnh mẽ qua phong trào Bình dân học vụ; biến việc học chữ Quốc ngữ thành nghĩa vụ bắt buộc và miễn phí cho toàn dân.
Cùng với đó, một nền giáo dục hoàn toàn mới được định hình, dựa trên ba nguyên tắc cốt lõi: dân tộc hóa (lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ chính), khoa học hóa (chống lối học giáo điều) và đại chúng hóa (phục vụ đông đảo nhân dân). Ngày 2/3/1946, trong Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa I, Bộ Quốc gia Giáo dục được đổi tên thành Bộ Giáo dục.
Khi cuộc kháng chiến lan rộng, giáo dục đã có sự chuyển mình mạnh mẽ, trở thành một mặt trận thực sự với phương châm "Học để kháng chiến".
Điểm nhấn quan trọng của sự chuyển hướng này là cuộc Cải cách giáo dục toàn diện năm 1950, nhằm kiến thiết một hệ thống giáo dục mới, thống nhất và liên thông, phục vụ trực tiếp cho cuộc chiến và công cuộc kiến quốc tương lai.
Cuộc cải cách đã thay thế hệ thống phổ thông 12 năm bằng hệ thống 9 năm gọn nhẹ hơn, đồng thời xây dựng lại toàn bộ chương trình và sách giáo khoa theo hướng thiết thực, khoa học và đậm tinh thần dân tộc.

Người dân Triệu Phong (Thừa Thiên - Huế) vừa đạp nước, vừa học chữ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
Phong trào Bình dân học vụ - cả nước diệt “giặc dốt”
Giáo dục Việt Nam giai đoạn 1945-1954 đã thể hiện một sức sống mãnh liệt và có những bước chuyển mình sâu sắc, tập trung vào ba mặt trận chính trong vùng tự do.
Phong trào Bình dân học vụ là thành tựu rực rỡ nhất, một cuộc vận động chính trị - xã hội sâu rộng nhằm “diệt giặc dốt”. Với tinh thần sáng tạo, lớp học được mở ở mọi nơi, sử dụng các vật liệu tự tạo. Phong trào không chỉ xóa mù chữ cho hàng triệu người mà còn là nơi tuyên truyền đường lối kháng chiến. Tiếp nối thành công đó, hệ thống Bổ túc văn hóa được hình thành để nâng cao trình độ cho những người đã biết chữ.
Trong giai đoạn này, dù phải sơ tán trường lớp từ thành thị về nông thôn và căn cứ địa, hệ thống giáo dục phổ thông không những được duy trì mà còn phát triển về quy mô. Số lượng trường lớp, giáo viên và học sinh ở cả ba cấp học đều tăng lên đáng kể. Đặc biệt, Chính phủ đã thành lập các trường nội trú cho con em dân tộc thiểu số và học sinh miền Nam, thể hiện tầm nhìn chiến lược trong việc đào tạo cán bộ.
Đối với giáo dục đại học và chuyên nghiệp, ngay sau năm 1945, các trường đại học được khôi phục và chuyển sang giảng dạy bằng tiếng Việt. Trong kháng chiến, các trường sơ tán lên chiến khu và áp dụng phương pháp “học đi đôi với hành”, gắn liền lý thuyết với thực tiễn chiến trường.
Từ sau năm 1950, việc đào tạo trở nên hệ thống hơn với các trung tâm được hình thành và chính sách cử lưu học sinh đi học tại các nước xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật cốt cán cho tương lai.
Tại các vùng bị thực dân Pháp tạm chiếm, giáo dục trở thành một mặt trận đấu tranh tư tưởng.
Chính quyền Pháp và tay sai thiết lập một nền giáo dục hạn hẹp, chủ yếu ở các thành phố, nhằm mục đích nô dịch, tuyên truyền chống cách mạng và đầu độc thanh niên. Trường học bị biến thành nơi theo dõi, dụ dỗ và bắt lính, đồng thời đàn áp các giáo viên và học sinh yêu nước.
Nhưng bất chấp sự kìm kẹp, phong trào giáo dục yêu nước vẫn phát triển mạnh mẽ. Các lớp Bình dân học vụ xóa mù chữ vẫn được duy trì bí mật. Đặc biệt, phong trào đấu tranh chính trị của học sinh, sinh viên diễn ra sôi nổi, tiêu biểu là phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên thành phố Sài Gòn ngày 9/1/1950.

Sau một năm thực hiện phong trào chống nạn mù chữ (8/9/1945-8/9/1946), Đại hội Bình dân học vụ được tổ chức tại Hà Nội
Kiến tạo thế hệ “Công dân kháng chiến”
Được xác lập, định hình trên các nguyên tắc tiến bộ là “dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa”, giáo dục trong giai đoạn 1945-1954 đã đưa tiếng Việt trở thành ngôn ngữ giảng dạy chính thức ở mọi cấp học.
Niềm tin của các tầng lớp Nhân dân vào chế độ mới được củng cố khi các phong trào giáo dục như Bình dân học vụ, Bổ túc văn hóa được triển khai mạnh mẽ. Đây được xem là một trong những phong trào giáo dục đại chúng tiêu biểu nhất trong lịch sử Giáo dục Việt Nam. Phong trào thể hiện tinh thần dân tộc, đoàn kết, tự lực, tự cường, góp phần nâng cao dân trí, phục vụ công cuộc kháng chiến và kiến quốc.
Mặc dù trong điều kiện chiến tranh khốc liệt, đất nước bị chia cắt nhưng hệ thống trường lớp từ mầm non đến đại học không ngừng được mở rộng. Nhiều loại hình trường mới ra đời để đáp ứng nhu cầu kháng chiến, yêu cầu thực tiễn.
Giai đoạn này cũng đánh dấu sự thành công của nền giáo dục khi đã đào tạo thế hệ cán bộ, học sinh, sinh viên có lòng yêu nước, trở thành nguồn nhân lực cốt cán cho thắng lợi của cuộc kháng chiến và công cuộc xây dựng đất nước sau này - thế hệ “Công dân kháng chiến”.
Trong giai đoạn 1945-1954, những thành tựu đạt được của ngành Giáo dục có ý nghĩa to lớn, không chỉ góp phần quyết định vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm mà còn đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển của ngành Giáo dục nói riêng, của dân tộc Việt Nam nói chung trong các giai đoạn tiếp theo.

Bác Hồ quan sát một cháu thiếu nhi tập đánh vần khi đến thăm lớp học vỡ lòng Đình Thạch Khối ở phố Hàng Than, Hà Nội (31/12/1958)
Bài 2: Giáo dục Kháng chiến, kiến quốc
Giai đoạn 1954 – 1975 là bước ngoặt lớn trong lịch sử Việt Nam, khi đất nước bị chia cắt thành hai miền với hai thể chế và con đường phát triển đối lập. Miền Bắc đi theo con đường xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, còn miền Nam nằm dưới quyền chi phối của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Bối cảnh đó đã tác động sâu sắc khiến nền giáo dục giai đoạn này trở nên đa dạng, đạt được những thành tựu nhất định và có sự khác biệt về bản chất, mục tiêu của giáo dục hai miền.
Giáo dục kết hợp lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội
Trong giai đoạn 1954–1975, Đảng và Nhà nước luôn coi giáo dục là một mặt trận trọng yếu gắn liền với sự nghiệp cách mạng.
Chủ trương nổi bật được thể hiện qua cuộc Cải cách giáo dục năm 1956 và Nghị định số 1027-TTg (27/8/1956) ban hành Chính sách giáo dục phổ thông, xác định mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ toàn diện, trung thành với Tổ quốc, có tài, có đức để xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện thống nhất đất nước.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong giai đoạn này thể hiện một cách toàn diện và sâu sắc khi Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960) tiếp tục nhấn mạnh giáo dục phải phục vụ đường lối cách mạng, bồi dưỡng thế hệ lao động làm chủ, có văn hóa, kỹ thuật, sức khỏe, góp phần đào tạo cán bộ và nâng cao trình độ nhân dân. Các nguyên lí học đi đôi với hành, lí luận gắn với thực tiễn, giáo dục kết hợp lao động sản xuất và nhà trường gắn với xã hội trở thành kim chỉ nam cho toàn ngành.
Đặc biệt, trong bối cảnh chiến tranh khốc liệt, Chỉ thị 169-CT/TW ngày 14/02/1968 của Ban Bí thư đã nhấn mạnh nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục, đáp ứng nhu cầu đào tạo cán bộ, lao động kỹ thuật và chuẩn bị nguồn nhân lực cho công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh. Quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Đảng trong giai đoạn này là giáo dục vừa phục vụ trực tiếp sự nghiệp kháng chiến, vừa chuẩn bị chiến lược lâu dài cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên thăm hỏi các em học sinh trường Thuỵ Dân (Thái Bình) sống sót sau trận ném bom của giặc Mỹ ngày 21/10/1966
Thiết lập hệ thống phổ thông 10 năm với chương trình giáo dục toàn diện
Giáo dục miền Bắc giai đoạn 1954 – 1957 tập trung xóa nạn mù chữ và tiến hành cải cách giáo dục lần hai. Chiến dịch xóa mù chữ lần thứ ba được phát động rộng rãi, huy động lực lượng lớn tình nguyện viên, nhiều địa phương hoàn thành nhiệm vụ ngay cuối năm 1956 – đầu 1957.
Cải cách giáo dục 1956 thiết lập hệ thống phổ thông 10 năm với chương trình giáo dục toàn diện, gắn lý luận với thực tiễn. Đội ngũ giáo viên được đào tạo bài bản hơn. Sách giáo khoa được biên soạn mới.
Từ 1958 – 1964, giáo dục trở thành bộ phận trọng yếu của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, chương trình học được củng cố, chú trọng thực hành và lao động sản xuất. Phong trào thi đua “Hai tốt” được phát động, lan rộng góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Các trường đại học phát triển nhanh, từ 5 trường (1959-1960) lên 17 trường (1964-1965), nhiều cán bộ được đào tạo ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Giai đoạn 1965 – 1975, khi Mỹ đánh phá miền Bắc, ngành Giáo dục chuyển sang điều kiện thời chiến, sơ tán trường lớp, mở lớp dã chiến, biên soạn chương trình A và B phù hợp với từng vùng. Dù khó khăn, ngành Giáo dục vẫn duy trì, bồi dưỡng tinh thần yêu nước và ý chí kháng chiến.
Giai đoạn này, nền giáo dục miền Nam duy trì song song hai hệ thống: giáo dục dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa và giáo dục trong vùng giải phóng.
Giáo dục cách mạng ở vùng giải phóng miền Nam cũng có những bước phát triển. Từ năm 1954 đến năm 1960 là giai đoạn đặt nền móng, chủ yếu thông qua các lớp bình dân học vụ, hoạt động dưới “vỏ bọc hợp pháp” trong điều kiện khó khăn.
Từ năm 1961 đến năm 1968, cùng với sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, một hệ thống giáo dục cách mạng được thiết lập, có chương trình và sách giáo khoa riêng, trường lớp phát triển mạnh từ mẫu giáo đến bổ túc văn hóa, số học sinh tăng từ khoảng 10.000 (1960-1961) lên khoảng 84.000 (1964).
Giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1975, giáo dục chuyển hướng linh hoạt, mở lớp hợp pháp và bán hợp pháp ở vùng ven. Sau Hiệp định Paris, phong trào giáo dục phát triển mạnh mẽ, chuẩn bị cho việc thống nhất nền giáo dục sau giải phóng.

Phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Sài Gòn – Gia Định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Đào tạo nhân lực thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược
Thành tựu nổi bật nhất của Giáo dục Việt Nam trong giai đoạn 1954 – 1975 là miền Bắc đã cơ bản xóa nạn mù chữ. Đến năm 1958, có 93,4% nhân dân độ tuổi 12 – 50 ở đồng bằng và trung du biết đọc, biết viết. Đây là cơ sở cho việc nâng cao dân trí, phát triển văn hóa, kinh tế của đất nước.
Cuộc cải cách giáo dục 1956 đã xây dựng một hệ thống giáo dục quốc dân hoàn chỉnh, từ mầm non đến đại học, mở rộng mạng lưới đến tận các xã. Hàng vạn cán bộ, trí thức, kỹ sư, bác sĩ, giáo viên được đào tạo, trở thành lực lượng chủ chốt xây dựng miền Bắc và chi viện cho miền Nam.
Ngay cả trong chiến tranh, giáo dục miền Bắc vẫn duy trì ổn định, bảo đảm “học không gián đoạn”. Quy mô giáo dục tăng đều, số học sinh phổ thông từ hơn 4,6 triệu (1972-1973) lên hơn 5,2 triệu (1974-1975).
Ở miền Nam, trong vùng giải phóng, nền giáo dục cách mạng đã chứng minh sự linh hoạt, bền bỉ, xây dựng mạng lưới trường lớp dân chủ, đào tạo cán bộ phục vụ kháng chiến, in ấn và phổ biến hàng triệu bản sách giáo khoa.
Dù trong bối cảnh chiến tranh khốc liệt, đất nước chia cắt, nhưng giai đoạn 1954 – 1975, giáo dục Việt Nam vẫn đạt được những thành tựu đáng kể. Những thành tựu đạt được trong bối cảnh thực tiễn đó, đặt ra yêu cầu đổi mới, thống nhất và nâng cao chất lượng giáo dục trên phạm vi cả nước sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Thị Bình trò chuyện cùng các giáo viên và học sinh Trường Lê Ngọc Hân, Hà Nội (ngày 15/9/1976).
Bài 3: Nền giáo dục quốc gia thống nhất
Đại thắng Mùa Xuân 1975, non sông thu về một mối. Đất nước thống nhất đặt ra yêu cầu cấp thiết xây dựng một nền giáo dục thống nhất. Giai đoạn 1975 – 1986 là một chặng đường lịch sử đặc biệt, ghi dấu những nỗ lực phi thường của ngành Giáo dục Việt Nam, trong bối cảnh đất nước còn bộn bề khó khăn do hậu quả chiến tranh để lại, do bị bao vây, cấm vận và những hệ lụy của cơ chế quản lí tập trung, quan liêu, bao cấp.
Quá trình phát triển của giáo dục trong thời kỳ này có thể chia thành hai giai đoạn rõ rệt. Giai đoạn 1975 – 1978, tập trung vào các nhiệm vụ cấp bách hậu chiến, tiếp quản, ổn định và thống nhất bước đầu hệ thống giáo dục trên phạm vi cả nước. Giai đoạn 1979 – 1986, triển khai cuộc Cải cách giáo dục toàn diện lần thứ ba trong bối cảnh đời sống kinh tế – xã hội gặp nhiều khó khăn, thử thách.
Thống nhất bước đầu hệ thống giáo dục trên phạm vi cả nước
Tháng 6 năm 1975, chỉ hơn một tháng sau ngày giải phóng, Ban Bí thư đã ban hành hai chỉ thị lịch sử (số 221-CT/TW và 222-CT/TW) về công tác giáo dục ở miền Nam. Các chỉ thị này đóng vai trò kim chỉ nam cho giai đoạn đầu, tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm, trong đó, nhấn mạnh nhiệm vụ tiếp quản, cải tạo, nhanh chóng đưa giáo dục miền Nam trở lại hoạt động bình thường, cải tạo nền giáo dục cũ theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xoá mù chữ và Bổ túc văn hóa tiếp tục được xác định là nhiệm vụ hàng đầu để nâng cao dân trí, tạo nền tảng đào tạo nhân lực cho chế độ mới.
Ngành Giáo dục bắt đầu phát triển hệ thống, mở rộng mạng lưới trường lớp từ mầm non đến phổ thông, ưu tiên tiếp nhận con em nhân dân lao động.
Đồng thời thực hiện nhiệm vụ thống nhất quản lý, quốc hữu hoá toàn bộ trường tư thục, đưa hệ thống giáo dục đại học vào dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước.
Định hướng chiến lược này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng IV (1976), xác lập nền tảng tư tưởng cho sự phát triển giáo dục: “Giáo dục là nền tảng văn hóa của một nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc”.
Giáo dục được xác định là một bộ phận quan trọng của cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa, với mục tiêu đào tạo con người phát triển toàn diện, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng tại lễ tuyên dương và phát thưởng cho học sinh giỏi Thủ đô năm học 1981-1982 (ngày 1/6/1982)
Phát triển giáo dục “phù hợp với yêu cầu và khả năng của nền kinh tế quốc dân”
Trong giai đoạn 1979 – 1986, Nghị quyết 14-NQ/TW (tháng 1/1979) về Cải cách giáo dục được xem là văn kiện pháp lý quan trọng nhất, chính thức khởi động cuộc Cải cách giáo dục lần thứ ba.
Nghị quyết này mang tính chất như một “cương lĩnh cải cách giáo dục lâu dài”, đề ra các mục tiêu và giải pháp cốt lõi.
Thứ nhất, thống nhất hệ thống phổ thông: xây dựng hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm trên toàn quốc, chia làm hai bậc, trong đó, bậc phổ thông cơ sở 9 năm và bậc phổ thông trung học 3 năm, xóa bỏ sự khác biệt giữa hệ 10 năm ở miền Bắc và 12 năm ở miền Nam.
Thứ hai, đổi mới nội dung và phương pháp: biên soạn một bộ chương trình và sách giáo khoa thống nhất trên cả nước theo tinh thần hiện đại, thiết thực, kết hợp chặt chẽ giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
Thứ ba, thực hiện nguyên lý giáo dục mới “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất”, chú trọng tăng cường giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp cho học sinh.
Thứ tư, thực hiện mục tiêu đào tạo, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa với đầy đủ các phẩm chất về trí tuệ, đạo đức, thể chất và thẩm mỹ.
Tuy nhiên, trước bối cảnh kinh tế - xã hội lâm vào khó khăn, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (1982) đã có cái nhìn thẳng thắn, thực tế và đặt trọng tâm vào chất lượng giáo dục.
Quan điểm chỉ đạo cũng có sự điều chỉnh quan trọng như chuyển từ những mục tiêu cải cách vĩ mô, tham vọng sang việc tập trung giải quyết các vấn đề bức xúc nhất, với phương châm phát triển giáo dục “phù hợp với yêu cầu và khả năng của nền kinh tế quốc dân”.

Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh nói chuyện thân mật với các đại biểu thiếu nhi về dự Đại hội Cháu ngoan Bác Hồ toàn quốc lần thứ I tại Phủ Chủ tịch (ngày 21/8/1981)
Lần đầu tiên, một bộ chương trình và sách giáo khoa duy nhất được biên soạn
Từ 1975 – 1978, ngành Giáo dục đã nhanh chóng tiếp quản và đưa vào hoạt động ổn định gần như toàn bộ hệ thống trường lớp ở miền Nam. Chiến dịch xóa mù chữ và bổ túc văn hóa được phát động rầm rộ trên toàn miền Nam.
Đến cuối năm 1978, các tỉnh thành phía Nam đã căn bản hoàn thành xoá mù chữ cho gần 1,4 triệu người, một thành tựu mang ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc. Toàn bộ các trường tư thục bị giải thể. Nhiều trường đại học công lập được sáp nhập, tổ chức lại thành các trung tâm đào tạo đa ngành lớn (Đại học Tổng hợp, Bách khoa, Sư phạm...). Hệ thống đào tạo sau đại học (Phó tiến sĩ) cũng được hình thành từ năm 1976.
Những năm từ 1979 – 1986, kinh tế - xã hội đất nước gặp rất nhiều khó khăn đã tác động trực tiếp và nặng nề đến giáo dục. Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục rất hạn hẹp (chỉ chiếm 3,5-3,7% tổng chi ngân sách). Nhưng trong bối cảnh đó, ngành Giáo dục đã triển khai thành công cuộc cải cách, thống nhất thành công hệ thống phổ thông 12 năm trên cả nước. Lần đầu tiên, một bộ chương trình và sách giáo khoa duy nhất được biên soạn và áp dụng, chấm dứt tình trạng dạy học manh mún, thiếu đồng bộ.
Mục tiêu thống nhất hệ thống giáo dục quốc dân được thực hiện thành công là thành tựu có ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc. Việc xóa bỏ sự chia cắt về cơ cấu, nội dung và quản lý đã tạo ra một nền tảng pháp lý và tổ chức vững chắc cho sự phát triển giáo dục trong các giai đoạn tiếp theo.
Vào thời điểm khủng hoảng, mạng lưới trường lớp từ mầm non đến đại học vẫn được duy trì và mở rộng đến khắp các vùng miền, đảm bảo quyền học tập cho hàng chục triệu người dân, thể hiện sự ưu việt của chế độ.
Thành công trong xóa mù chữ góp phần quan trọng nâng cao dân trí, mặt bằng văn hóa chung, tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội.
Song song đó, giai đoạn này đã hình thành và thể chế hóa một cách hệ thống các quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về giáo dục xã hội chủ nghĩa, trở thành kim chỉ nam cho hoạt động của ngành trong suốt một thời gian dài.
Theo Bộ GDĐT
(Tư liệu do Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam cung cấp)
Nguồn tin: Báo Điện tử Chính phủ
Email:
Mã xác nhận: