Kể từ khi ra đời đến nay, Quốc hội đã giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta. Hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội đã được tiến hành một cách toàn diện, đồng bộ và đạt kết quả quan trọng cả về số lượng và chất lượng. Tính đến nay, Quốc hội Việt Nam đã thông qua 5 bản Hiến pháp (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và năm 2013) cùng hàng trăm luật, bộ luật và nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng khác. Thông qua đó đã xây dựng hệ thống pháp luật phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, định hình khuôn khổ pháp lý cho sự vận hành của Nhà nước pháp quyền XHCN và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; bảo đảm và bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do cơ bản của công dân; góp phần thúc đẩy và mở rộng hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng của nước ta. Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946, Quốc hội đã khẳng định vai trò trung tâm trong xây dựng một nhà nước dân chủ, của dân, do dân, vì dân.
Một phiên họp trong chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV diễn ra chiều 27/10/2025
Cần khẳng định rằng, 80 năm qua, hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội ngày càng được đổi mới, đáp ứng kịp thời yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước. Điều đó được thể hiện một cách sinh động nhất tại các kỳ họp gần đây của Quốc hội khóa XV. Chỉ riêng Kỳ họp thứ chín, Quốc hội khóa XV đã thông qua 34 luật, 13 nghị quyết; tại Kỳ họp thứ mười, Quốc hội khóa XV đã thông qua 51 luật và 8 nghị quyết quy phạm pháp luật-tương đương 30% tổng số văn bản lập pháp của cả nhiệm kỳ, trong đó có nhiều quyết sách mang tính lịch sử đặc biệt quan trọng như sửa đổi Hiến pháp để thực hiện chính quyền địa phương hai cấp; thông qua các đạo luật để thể chế hóa các chủ trương có tính “trụ cột”, “đột phá”, tạo đà phát triển trong kỷ nguyên phát triển mới.
Về chất lượng, các văn bản luật của Quốc hội ngày càng được nâng cao. Trước hết, chất lượng lập hiến, lập pháp đã từng bước được nâng cao theo hướng chuyên nghiệp, dân chủ, thực tiễn và khả thi. Các đạo luật đã kịp thời thể chế hóa những chủ trương, đường lối lớn của Đảng, góp phần cụ thể hóa định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, cải cách tư pháp, cải cách hành chính cũng như thúc đẩy phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Bên cạnh đó, tư duy lập pháp từng bước được đổi mới theo hướng tinh gọn, nguyên tắc và thiết chế. Quốc hội đã từng bước đổi mới tư duy lập pháp từ nặng tính kỹ thuật, liệt kê sang xác lập các quy phạm nguyên tắc, thiết chế hóa các quan hệ xã hội cốt lõi. Việc luật hóa vai trò giám sát quyền lực, kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ dữ liệu cá Nhân là những bước tiến lớn trong tư duy lập pháp hiện đại.
Quốc hội cũng đã tăng cường giám sát, phản biện và chất vấn trong quy trình lập pháp. Hoạt động lập pháp gắn với các hình thức giám sát lập pháp, lấy ý kiến Nhân dân, phản biện xã hội, tăng cường trách nhiệm giải trình của cơ quan trình và cơ quan thẩm tra luật. Qua đó, Quốc hội ngày càng khẳng định vai trò định hướng thể chế, không chỉ “làm luật” mà còn “kiến tạo thể chế phát triển”.
Bên cạnh những thành tựu quan trọng, hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội vẫn còn một số hạn chế. Tư duy lập pháp trong một số lĩnh vực vẫn nặng về quản lý hành chính, thiếu tính chiến lược và dự báo dài hạn; nhiều đạo luật còn mang tính sự vụ, đối phó, chưa đi trước và dẫn dắt thực tiễn. Chất lượng của một số đạo luật chưa cao, tính khả thi và ổn định còn hạn chế, phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần trong thời gian ngắn. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong quá trình lập pháp chưa thật sự rõ ràng và hiệu quả; vai trò thẩm tra, phản biện và đánh giá tác động chính sách còn hạn chế. Việc thiếu các thiết chế độc lập, chuyên nghiệp hỗ trợ hoạt động lập pháp dẫn đến tình trạng phụ thuộc nhiều vào cơ quan hành pháp trong soạn thảo và ban hành luật. Bên cạnh đó, việc tiếp thu và thể chế hóa tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về Nhà nước pháp quyền và quyền con người trong lập pháp còn chưa đầy đủ và nhất quán.
Những hạn chế này xuất phát từ cả nguyên Nhân chủ quan và khách quan. Về chủ quan, tư duy lập pháp còn nặng về quản lý, điều hành, chưa thực sự lấy quyền con người, quyền công dân và nhu cầu thực tiễn của xã hội làm trung tâm; năng lực lập pháp của một bộ phận đại biểu và cơ quan tham gia xây dựng pháp luật chưa đồng đều, thiếu chiều sâu và gắn bó thực tiễn. Về khách quan, thiết chế hỗ trợ lập pháp còn yếu, thiếu nguồn Nhân lực chất lượng cao trong nghiên cứu chính sách và pháp luật; cơ chế phối hợp giữa Quốc hội với các cơ quan trong hệ thống chính trị chưa đồng bộ; bối cảnh lịch sử, điều kiện chiến tranh và phát triển không đồng đều qua các giai đoạn cũng ảnh hưởng đến chất lượng lập pháp.
Kỷ nguyên phát triển mới-kỷ nguyên vươn mình của dân tộc-đặt ra yêu cầu đổi mới mạnh mẽ, toàn diện cả về tư duy, phương thức và thiết chế vận hành quyền lực nhà nước, trong đó hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội đóng vai trò trung tâm. Quốc hội không chỉ là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất mà còn là nơi phản ánh tầm nhìn chiến lược và ý chí phát triển bền vững của quốc gia.
Trong bối cảnh đó, Quốc hội cần chuyển từ vai trò “làm luật” sang vai trò kiến tạo thể chế, thiết kế cấu trúc quyền lực, tạo lập hành lang pháp lý cho phát triển, khơi thông các nguồn lực xã hội, đặc biệt là khu vực kinh tế tư Nhân. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định rõ: “Tập trung hoàn thiện thể chế chính sách, pháp luật... để phát triển mạnh khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo” nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, phát triển bền vững đất nước trên nền tảng đổi mới sáng tạo và công nghệ số. Tổng Bí thư Tô Lâm đặc biệt đề cao vai trò của thể chế, coi hoàn thiện thể chế là một trong 3 trụ cột chiến lược cùng với phát triển nguồn Nhân lực chất lượng cao và hạ tầng hiện đại.
Theo đó, vai trò của hoạt động lập hiến, lập pháp trong kỷ nguyên mới được xác định trên 3 trục lớn:
(1) Định hình khung thể chế bảo đảm quyền tự do kinh doanh, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển: Hiến pháp là nền tảng tối cao xác lập quyền tự do kinh doanh, bảo hộ quyền sở hữu, bảo đảm bình đẳng trước pháp luật giữa các thành phần kinh tế-là cơ sở để kinh tế tư nhân vươn lên đóng vai trò động lực quan trọng. Luật pháp phải tạo ra một môi trường đầu tư-kinh doanh thông thoáng, công bằng, ổn định và dự đoán được; đồng thời tháo gỡ các rào cản hành chính, cắt giảm chi phí tuân thủ pháp luật. Lập pháp cần chuyển từ “quản lý” sang “kiến tạo”, từ “giám sát” sang “đồng hành”, để khơi thông dòng chảy sáng tạo và đầu tư của khu vực tư nhân-biến họ thành động lực của tăng trưởng, đổi mới và cạnh tranh.
(2) Thiết lập hành lang pháp lý thúc đẩy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo: Kỷ nguyên mới là kỷ nguyên của tri thức, công nghệ và đổi mới. Vai trò lập pháp ở đây là tạo dựng cơ chế pháp lý bảo vệ tài sản trí tuệ, khuyến khích R&D (Research and Development-Nghiên cứu và Phát triển), hỗ trợ chuyển giao công nghệ, phát triển thị trường khoa học, công nghệ. Pháp luật phải thiết lập hệ sinh thái pháp lý cho khởi nghiệp sáng tạo (startup), sandbox (khung pháp lý thử nghiệm có kiểm soát) thể chế, huy động đầu tư mạo hiểm, tạo không gian thử nghiệm công nghệ mới. Cần sửa đổi các luật về đầu tư, thuế, doanh nghiệp, công nghệ cao... theo hướng hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, khuyến khích hình thành các doanh nghiệp công nghệ mang tầm khu vực và thế giới.
(3) Tái cấu trúc nền quản trị quốc gia-hiện đại, minh bạch, hiệu quả: Lập hiến và lập pháp là công cụ thiết yếu để xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, có trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực chặt chẽ, bảo đảm công khai, minh bạch và liêm chính trong quản lý công. Pháp luật cần thúc đẩy chuyển đổi số trong quản lý nhà nước, triển khai Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, từ đó tăng hiệu lực điều hành, giảm chi phí giao dịch, loại bỏ trung gian phi chính thức. Lập pháp cần thúc đẩy thể chế dữ liệu mở, quản trị bằng trí tuệ nhân tạo, ứng dụng công nghệ blockchain trong quản lý nhà nước-từ đó gia tăng hiệu quả, giảm thiểu tham nhũng và tạo niềm tin xã hội.
Trong bối cảnh mới, hoạt động lập hiến, lập pháp cũng phải gắn với yêu cầu phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền XHCN. Trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, Quốc hội phải đóng vai trò thiết kế cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước; đồng thời thiết lập khuôn khổ pháp lý để bảo đảm sự độc lập nhưng phối hợp, phân lập nhưng không chia rẽ, kiểm soát lẫn nhau nhưng cùng hướng tới mục tiêu phụng sự nhân dân và phát triển đất nước. Đây là tinh thần xuyên suốt của Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi, bổ sung năm 2025), được cụ thể hóa bằng yêu cầu xây dựng các thiết chế kiểm soát quyền lực hữu hiệu, gắn kiểm soát quyền lực với trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch và pháp quyền.
Để hoàn thiện những mục tiêu như trên, đề nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành nghị quyết chuyên đề về nâng cao hiệu quả hoạt động lập hiến, lập pháp đáp ứng yêu cầu phát triển của kỷ nguyên mới. Đề nghị Quốc hội xây dựng Chiến lược lập pháp đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; cùng với đó, tăng cường đầu tư hạ tầng số hỗ trợ hoạt động lập pháp, xây dựng hệ thống dữ liệu pháp luật quốc gia đồng bộ, thông minh.
Trải qua 80 năm, hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc, từ giai đoạn đặt nền móng đến đổi mới và hội nhập quốc tế. Trước những yêu cầu phát triển mới, tư duy lập pháp cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, bảo đảm tính minh bạch, hiệu quả, dự báo và thích ứng với sự thay đổi của thời đại. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật dưới sự lãnh đạo của Đảng là sự nghiệp của toàn dân, cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, chuyên gia, doanh nghiệp và nhân dân để góp phần đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Nguồn: Quân đội nhân dân
>>> Xin mời quý vị đón xem Thời sự HTV lúc 20 giờ và Chương trình Thế giới 24G lúc 20 giờ 30 phút mỗi ngày trên kênh HTV9
Email:
Mã xác nhận: