Chuyển đổi số ngành y tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận các dịch vụ y tế kịp thời - Ảnh: VGP/HM
Dữ liệu rời rạc, bị lộ lọt
Tại diễn đàn "Chuyển đổi số y tế - thời cơ đột phá" do Hiệp hội bệnh viện tư nhân Việt Nam tổ chức mới đây, dưới góc nhìn của một chuyên gia an ninh mạng, ông Ngô Minh Hiếu (Hiếu PC), Giám đốc Dự án phòng Chống lừa đảo chia sẻ, nhiều bệnh viện ở Việt Nam đang đứng trước nguy cơ rò rỉ dữ liệu bệnh án, hồ sơ điều trị, kết quả xét nghiệm ung thư, HIV...
Ví dụ điển hình, không ít người bệnh từng bất ngờ khi vừa xuất viện vài giờ đã nhận được cuộc gọi hoặc tin nhắn giới thiệu thuốc bổ, thiết bị hỗ trợ, thậm chí có sản phụ vừa sinh con, đã nhận được lời mời chào dịch vụ điều dưỡng tại nhà…
Những trường hợp này ngày càng phổ biến, hé lộ thực trạng dữ liệu cá nhân – trong đó có dữ liệu y tế đang bị rò rỉ, thậm chí bị mua bán công khai.
Theo ông Hiếu, mỗi tháng có khoảng 2.000 – 3.000 vụ rao bán dữ liệu cá nhân tại Việt Nam, với số lượng mỗi vụ từ vài nghìn đến hàng triệu dòng dữ liệu. Khoảng 2/3 người dân Việt Nam đã bị lộ lọt thông tin cá nhân.
Trong số này, dữ liệu y tế là một loại thông tin được đánh giá đặc biệt nhạy cảm, bao gồm họ tên, số điện thoại, địa chỉ, bệnh lý, đơn thuốc, kết quả cận lâm sàng, bảo hiểm y tế... Tội phạm mạng có thể lợi dụng để lừa đảo, trục lợi bảo hiểm, hoặc bán lại cho các công ty tiếp thị.
"Nhiều cơ sở y tế hiện vẫn lưu trữ dữ liệu rời rạc, không mã hóa, dễ bị truy cập hoặc sao chép trái phép. Có hiện tượng nhân viên y tế, công ty vận hành phần mềm bệnh viện cấu kết bán dữ liệu để trục lợi", ông Hiếu chia sẻ.
Không chỉ bị tuồn lén, dữ liệu y tế còn là mục tiêu tấn công của hacker nhằm đòi tiền chuộc.
Ví dụ điển hình, trong 3 tháng ở Mỹ đã ghi nhận hơn 20 trường hợp bệnh viện bị tấn công bằng ransomware – loại mã độc chuyên dùng để mã hóa dữ liệu và đòi tiền chuộc. Việt Nam cũng đã ghi nhận những vụ tương tự, nhưng các đơn vị không công bố vì lo ảnh hưởng đến uy tín.
Chuyên gia an ninh mạng Ngô Minh Hiếu
Từ các thách thức hiện hữu
Hiện nay, nhiều cơ sở y tế vẫn dùng hồ sơ giấy, chưa liên thông hoặc đồng bộ hệ thống giữa các bệnh viện địa phương và Trung ương, dẫn đến khó truy xuất thông tin và chi phí lưu trữ cao.
Năng lực nhân lực công nghệ thông tin cũng thiếu chuyên gia về kỹ thuật số, khi nhiều bác sĩ hoặc nhân viên chưa được đào tạo về sử dụng hệ thống số và ứng dụng AI trong khám chữa bệnh.
Bên cạnh đó, khung quản lý chưa đầy đủ, chưa phổ biến rộng rãi các hướng dẫn bảo mật dữ liệu y tế theo quy định của Bộ Y tế; sự bất bình đẳng số (digital divide) như kết nối Internet yếu, đặc biệt tại vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa; kỹ năng sử dụng công nghệ phân hoá giữa đô thị và nông thôn.
Về phía nhân viên y tế và bệnh nhân khó thích nghi, do thiếu đào tạo, hỗ trợ và nhận thức còn hạn chế về lợi ích của chuyển đổi số.
Ông Ngô Minh Hiếu cũng chia sẻ, trong khu vực Đông Nam Á, các quốc gia đã triển khai y tế số thành công thông qua hệ thống Telehealth, mHealth, hệ thống bệnh viện thông tin, dữ liệu lớn, AI nhưng gặp hạn chế tương tự như Việt Nam: thiếu hạ tầng, pháp lý, kỹ năng và khung bảo mật.
Tại nhiều nước phát triển, việc chuyển đổi số y tế toàn diện thường tập trung vào hồ sơ bệnh án điện tử (EHR/EMR), nhưng luôn đối mặt nguy cơ đánh mất riêng tư nếu không kiểm soát dữ liệu tập trung và lỏng lẻo về chính sách bảo vệ cá nhân.
Ví dụ, với ứng dụng mHealth, các ứng dụng di động y tế phát triển nhanh nhưng dễ tổn thương do thiếu tiêu chuẩn phát triển bảo mật, thiếu đào tạo dành cho nhà phát triển và quy trình kiểm thử hạn chế.
Đối với Việt Nam, ông Ngô Minh Hiếu khuyến cáo cần có chiến lược tổng thể hoàn thiện khung pháp lý và tiêu chuẩn công nghệ thông tin y tế, hướng dẫn cụ thể về bảo mật dữ liệu, phân quyền truy cập và chuẩn hoá thông tin bệnh án điện tử.
Xây dựng chuẩn kết nối dữ liệu quốc gia (interoperability) để giúp các HIS, LIS, RIS‑PACS thực sự liên thông dữ liệu hiệu quả.
Về an ninh và bảo mật, cần áp dụng mô hình quản trị định danh toàn quốc (như VNeID) tích hợp xác thực điện tử để xác minh người dùng khi truy cập dữ liệu y tế.
Đồng thời cần phân quyền nghiêm ngặt, giới hạn truy cập theo vai trò, bảo vệ đầu cuối bằng mã hóa, xác thực đa yếu tố và giám sát phiên truy cập; đào tạo và nâng cao nhận thức bảo mật cho nhân viên y tế, nhà phát triển, các bên liên quan về các rủi ro và quy trình ứng phó.
Về hạ tầng và nguồn lực, tăng cường đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin, đặc biệt tại vùng sâu vùng xa để đảm bảo kết nối ổn định khi triển khai EMR toàn quốc. Phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật số chất lượng cao, từ chuyên gia bảo mật, phân tích dữ liệu đến ứng dụng AI phục vụ khám chữa bệnh.
Thử nghiệm, giám sát hiệu quả và nghiên cứu liên tục, sử dụng mô hình "researcher-in-the-loop" để đánh giá, điều chỉnh triển khai trong thực tiễn.
Chuyên gia này cũng nhìn nhận, những lợi thế hiện tại của ngành Y tế Việt Nam trong chuyển đổi số, đó là quy mô dân số lớn và phát triển Internet nhanh, với tỷ lệ sử dụng smartphone và Internet cao, là nền tảng cho telehealth và mHealth phát triển nhanh.
Đồng thời, các cam kết về chính sách từ các Quyết định như 5316/QĐ‑BYT (năm 2020), 4888/QĐ‑BYT (năm 2019), 1165/QĐ‑TTg (năm 2023), đã xây dựng lộ trình rõ ràng về EMR, telemedicine, dữ liệu dân cư, chứng thực điện tử.
Hệ thống y tế tập trung có thể triển khai quy mô quốc gia, dù còn nhiều bệnh viện tư nhân, nhưng hệ thống công lập Trung ương hoá giúp khả năng triển khai đồng bộ trên diện rộng cao hơn.
Từ ứng phó COVID‑19, Việt Nam cũng đã có kinh nghiệm triển khai sớm nhiều ứng dụng số trong giám sát, tư vấn, telemedicine, truyền thông nguy cơ, tạo cơ sở và niềm tin mở rộng hệ thống số y tế.
Tại cuộc họp Ban chỉ đạo về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số y tế tổ chức tháng 3/2025, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho biết, trên cơ sở các văn bản chỉ đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ liên quan đến phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 787/QĐ-BYT và Kế hoạch hành động của Bộ Y tế thực hiện Nghị quyết số 03/NQ-CP của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Theo đó, Bộ Y tế xác định ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số vào công việc thường xuyên của các đơn vị, đặc biệt tại các cơ sở y tế là yêu cầu rất cấp bách. Điều này đặt ra rất nhiều cơ hội và những thách thức để vận dụng được tinh thần chỉ đạo của Trung ương Đảng tại Nghị quyết 57-NQ/TW, Chương trình hành động của Chính phủ, cụ thể hóa thành những công việc hàng ngày của các đơn vị thuộc Bộ…
Tại cuộc họp đánh giá tình hình triển khai Đề án 06 của Chính phủ và Kế hoạch số 02-KH/BCĐTW về chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo trong ngành y tế, tổ chức ngày 8/7 vừa qua, Bộ trưởng tiếp tục nhấn mạnh, chuyển đổi số là nhiệm vụ trọng tâm và cấp thiết, đòi hỏi sự chủ động, quyết liệt, phối hợp chặt chẽ của tất cả các đơn vị. Việc chậm trễ, thiếu trách nhiệm sẽ được kiểm điểm cụ thể.
Báo Chính phủ
Link nội dung: https://htv.com.vn/nhung-thach-thuc-trong-chuyen-doi-so-nganh-y-te-222250812133223357.htm